Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Thực trạng hiện nay: Đại lý giữa trùng vây khuyến mãi

Song, điều đáng nói là với nhiều chương trình dồn dập, chồng chéo nhau ra đời, tiền chiết khấu công ty cũng không trả liền sau khi mua hàng, ra hóa đơn để đại lý dễ báo cáo thuế mà "ngâm" đến hai, ba tháng hoặc khi hết chương trình khuyến mãi mới chiết khấu thanh toán lại cho đại lý. "Cách làm này chẳng khác nào ép đại lý và mượn vốn của chúng tôi để kinh doanh", ông Khánh nói.
Ông Nguyễn Hòa Khánh, một đại lý hàng tiêu dùng ở Gò Dầu, Tây Ninh chia sẻ, do kinh kế khó khăn nên để tăng doanh thu, các công ty liên tục ra những chương trình khuyến mãi, chương trình này chưa hết đã đến chương trình khác.
Điều này sẽ có hai khó khăn cho đại lý: một là đại lý phải có kho rộng để lưu hàng tồn; hai là phải có vốn nhiều để mua số lượng lớn hàng hóa mới được hưởng chiết khấu ưu đãi của chương trình khuyến mãi mới.
Song, điều đáng nói là với nhiều chương trình dồn dập, chồng chéo nhau ra đời, tiền chiết khấu công ty cũng không trả liền sau khi mua hàng, ra hóa đơn để đại lý dễ báo cáo thuế mà "ngâm" đến hai, ba tháng hoặc khi hết chương trình khuyến mãi mới chiết khấu thanh toán lại cho đại lý. "Cách làm này chẳng khác nào ép đại lý và mượn vốn của chúng tôi để kinh doanh", ông Khánh nói.
Ngoài chuyện tiền chiết khấu chậm trả, tiền "chết" cũng là một thách thức với các đại lý. Bà Mai Hoa, đại lý hàng tiêu dùng ở đường Nguyễn Du, Long Khánh, Đồng Nai , nói thẳng: "Làm đại lý bây giờ khổ lắm, phải có bốn đồng vốn.
Một là vốn đầu tư mua hàng, hai là vốn công nợ (vì các tiệm tạp hóa nhỏ thường mua trả chậm), ba là vốn tồn kho, bốn là vốn để tham gia các chương trình khuyến mãi".
Bởi muốn làm đại lý cho các công ty có thương hiệu, uy tín thì tiền thế chân, xin làm đại lý cực kỳ lớn, con số có thể lên hàng tỷ đồng. Bên cạnh đó, doanh số bán hàng phải thật cao. Còn các công ty nhỏ cũng không dễ, muốn làm đại lý mới của họ thì phải "thử thách", nghĩa là họ không cho gối đầu mà đại lý phải bỏ tiền mua hàng.
Một đại lý cấp 1 ở Đồng Nai cho biết đang gặp khó do các đại lý chạy theo doanh số nên lấy lương nhân viên bán hàng để hạ giá xuống. Ví dụ, tại mỗi đại lý cấp một, công ty sẽ phải có 6 nhân viên bán hàng. Tuy nhiên, các đại lý chỉ tuyển 2 nhân viên để giảm bớt chi phí đầu vào, rồi đẩy giá bán hàng rẻ hơn các đại lý khác.
Một khó khăn khác nhiều đại lý gặp phải là nhiều công ty còn áp dụng chính sách chiết khấu theo hình tháp, nghĩa là đại lý bán càng nhiều, càng được chiết khấu cao, được hưởng lương nhân viên cao nên đại lý lấy phần ưu đãi đó để tiếp tục hạ giá, tạo ra một thị trường cạnh tranh phá giá nhau, cùng một sản phẩm nhưng mỗi nơi bán một giá.
Chẳng hạn, giá cà phê công ty đưa xuống bán lẻ là 81.200 đồng/kg, nhưng giá đại lý bán lẻ chỉ còn 72.200 đồng/kg.
Ông Phạm Việt Anh, Công ty Left Brain Connectors, cho rằng, thay vì thúc ép đại lý mua thêm thật nhiều hàng, sẽ hiệu quả hơn khi các danh nghiệp tạo được một bầu không khí tin cậy với khách hàng, điều này sẽ có giá trị về lâu dài dù doanh thu có thể thấp hơn trong giai đoạn trước mắt.
Bài học của Công ty Procter & Gamble tại Philippines nhiều năm qua đã cho thấy, nếu đại lý chỉ có khả năng tiêu thụ được 100 sản phẩm mà công ty cung cấp đến 125, có nghĩa công ty không biết được nhu cầu của khách hàng cũng như chi phí hoặc điều kiện lưu kho của nhà phân phối. Như vậy, vô hình trung các công ty đang làm khó nhà phân phối và làm hạn chế đầu ra cho sản phẩm của mình.

Khám phá những thương vụ hời của quỹ đầu tư

Chiến lược đầu tư của các quỹ thuộc Dragon Capital là đầu tư lâu dài. Ông Phạm Nguyễn Vinh, Giám đốc Phát triển kinh doanh Quỹ Đầu tư Dragon Capital, từng chia sẻ: "Các quỹ đầu tư của chúng tôi cam kết đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp Việt Nam với thời gian nắm giữ trung bình cho mỗi khoản đầu tư là từ 5 đến 7 năm".
Mặc dù thị trường Việt Nam trong hai năm trở lại đây được nhìn nhận không còn dễ dàng cho các QĐT, nhiều quỹ đã nhanh chóng rời bỏ thị trường chứng khoán, nhưng vẫn có quỹ thu về lợi nhuận không nhỏ sau những thương vụ thoái vốn thành công.
QĐT hoạt động tại thị trường Việt Nam dưới hai hình thức: quỹ đại chúng (hay còn gọi là quỹ mở) và quỹ thành viên (quỹ đóng - không bị giới hạn về lĩnh vực đầu tư nhưng bị giới hạn về thời gian hoạt động).
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quỹ đóng. Những quỹ vào Việt Nam trong những năm 1990 như: Credit Lyonnais (Pháp), Vietnam Enterprise Investment, Lazard Vietnam Fund, Templeton Vietnam Opportunities Fund... chủ yếu thành lập ở nước ngoài và đầu tư vào các công ty FDI. Sau năm 1997, số lượng các quỹ này giảm và họ "thoái vốn" gần như tay trắng.
Tuy nhiên, với những quỹ đến sau như: Mekong Capital, Dragon Capital, VinaCapital... vẫn bám trụ và nhiều khoản đầu tư của họ vào cổ phần công ty tư nhân (private equity) của Việt Nam thu về những món lợi không hề nhỏ sau 3 - 5 năm.
Theo thạc sĩ luật Nguyễn Ngọc Bích và chuyên gia kinh tế, TS.Nguyễn Đình Cung thì "trông mong lời lãi to là não trạng của các QĐT", do đó, việc của họ là chọn những khoản đầu tư hợp lý, bỏ vốn vào, làm tăng giá trị công ty và tìm cách "thoát ra" (exit) một cách thành công.
Mekong Capital thắng đậm với Thế Giới Di Động
Với lợi nhuận gấp 11 lần so với khoản đầu tư, Thế Giới Di Động là khoản sinh lời thành công nhất của Mekong Capital đến thời điểm hiện nay. Thậm chí, Mekong Capital còn có thể ăn "cú đúp" khi doanh nghiệp này niêm yết vào năm tới.
Ngày 20/3/2013, Mekong Enterprise Fund II (MEFII), một trong ba QĐT thuộc Mekong Capital, quản lý số vốn 50 triệu USD đã ra thông báo thoái một phần vốn khỏi Thế Giới Di Động (MobileWorld) với lợi nhuận gấp 11 lần so với khoản đầu tư mà họ bỏ vào đây từ năm 2007 (bao gồm cả cổ tức). Sau khi thoái vốn, tỷ lệ cổ phần MEFII nắm giữ tại MobileWorld giảm từ 32,5% xuống còn 25,8%.
Đây là vụ thoái vốn mang về lợi nhuận "khủng nhất" trong số các thương vụ mà Mekong Capital công bố. Có thể kể đến như vụ Mekong Capital thoái vốn khỏi AA Corporation vào tháng 10/2011 sau khi đầu tư 1,67 triệu USD vào thời điểm 2003 - 2005.
Song, lợi nhuận khi đó chỉ gấp hai lần khoản đầu tư ban đầu, với tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là 30%. Hoặc như khoản MEFII thoát khỏi Công ty Hàng tiêu dùng Quốc tế (ICP) năm 2011 khi bán cổ phần cho Marico Ltd., Ấn Độ cũng chỉ thu về lợi nhuận gấp hai lần.
Rõ ràng, với chiến lược đầu tư vào những công ty thuộc khu vực tư nhân ở quy mô nhỏ thì khoản lợi nhuận mà Mekong Capital kiếm được khi tham gia MobileWorld khiến giới đầu tư phải trầm trồ. Trường hợp này đã từng được Hiệp hội Đầu tư cổ phần công ty tư nhân tại các thị trường mới nổi (EMPEA) đề cập.
MobileWorld được thành lập năm 2004 thì đến năm 2007, sau khi tìm hiểu nhiều đối tác, cuối cùng MobileWorld đã chọn Mekong Capital là nhà đầu tư chiến lược. Năm đầu tiên sau hợp tác, với sự hỗ trợ của Mekong Capital, MobileWorld đã tăng số lượng từ 5 lên 15 cửa hàng bán lẻ. Đến năm 2011, nhà điều hành chuỗi bán lẻ điện thoại này đạt con số 209 cửa hàng và bán được gần 1,8 triệu chiếc điện thoại.
Cũng trong năm này, họ mở rộng bán hàng online và doanh thu mỗi tháng qua kênh này đạt trên 2 triệu USD. Song song với mảng bán lẻ điện thoại, năm 2010, MobileWorld mở thêm nhánh điện máy với thương hiệu Dienmay.com.
Theo ghi nhận của EMPEA, doanh số năm 2011 của Thế Giới Di Động đạt trên 255 triệu USD, với 8.377 lao động. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng doanh thu của MobileWorld sau khi Mekong Capital tham gia là trên 60%, trong vòng 4 năm, đã có 200 cửa hàng được mở ra.
Xét về thị phần, nếu năm 2009, Thế Giới Di Động chỉ khiêm tốn ở mức 5% thì đến thời điểm Mekong Capital thoái vốn, họ có 230 cửa hàng điện thoại trên phạm vi cả nước, chiếm 20% thị phần về doanh thu điện thoại và 12 cửa hàng kinh doanh điện máy tại khu vực phía Nam. Được biết, tham vọng của MobileWorld đến cuối năm 2013 là xếp vị trí số 1 trong lĩnh vực phân phối điện thoại, điện máy.
Sau khi Mekong Capital tuyên bố thoái vốn, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cũng như các nhà phân phối điện thoại tại TP.HCM tấm tắc khen Mekong Capital đã "thắng đậm" cho khoản đầu tư này. Nếu năm 2007, Mekong Capital đầu tư 4,5 triệu USD vào Thế Giới Di Động để sở hữu 32,5% thì giá trị 1% cổ phần của Thế Giới Di Động khi đó tương ứng 4.500 USD.
Đến tháng 3/2013, Mekong Capital bán 6,7% cổ phần đang sở hữu (tương ứng 301.500 USD) và đạt lợi nhuận gấp 11 lần, điều này có nghĩa, họ thu về hơn 3 triệu USD. Nói về việc thoái một phần vốn khỏi MobileWorld, ông Chris Freund, Tổng giám đốc Mekong Capital, cho biết, Quỹ thường giữ một khoản đầu tư trong thời gian 5 năm.
Mekong Capital đầu tư vào MobileWorld năm 2007 nên 2012 là đến thời điểm để thoái vốn. Tuy nhiên, vì đội ngũ quản lý tốt và tiềm năng tăng trưởng của Công ty nên Mekong Capital quyết định giữ khoản đầu tư này lâu hơn mức bình quân. Mekong Capital cũng kỳ vọng Dienmay.com sẽ phát triển hơn nữa trước khi họ bán ra hầu hết phần đầu tư tại MobileWorld.
Hơn nữa, Mekong Capital cũng nhấn mạnh rằng, những "bài học" từ quá khứ cho thấy, đôi lúc tốt nhất là nên thoái vốn từ từ, từng phần hơn là đưa ra quyết định có hay không bán toàn bộ khoản đầu tư một lần. Và họ đã áp dụng hình thức này đối với Thế Giới Di Động.
Song, cũng cần phải nhìn nhận rằng, nếu MobileWorld niêm yết vào đầu năm 2014, với đà tăng trưởng ổn định thì có thể Mekong Capital sẽ kiếm thêm một khoản lợi nhuận "khủng" nữa.
VinaCapital "ăn may" với Prime Group
Chuyển từ trạng thái "tấn công" năm 2007 sang "phòng thủ”, các quỹ của VinaCapital đã nhanh chóng thoát khỏi nhiều cổ phiếu, chỉ còn giữ lại một vài cổ phiếu niêm yết cơ bản tốt như VNM, FPT, HPG... Song, khoản tiền kiếm được từ thương vụ bán cổ phần cho SSG lại được xem là thành công nhanh chóng của Quỹ VOF.
Ông Andy Ho, Giám đốc Điều hành Quỹ VOF (thuộc Tập đoàn VinaCapital), nhìn nhận, quỹ đã thực hiện tốt việc đầu tư vào Theo ghi nhận từ cuối năm 2012 đến nay, Top 10 khoản đầu tư nổi bật của VOF vẫn là khách sạn Sofittel Motropole (chiếm 7.65% NAV); Vinamilk (chiếm 7,46% NAV); Eximbank (chiếm 7,38%NAV); Bảo vệ Thực vật An Giang (OTC, chiếm 5,38% NAV); Kinh Đô (KDC, chiếm 3,64% NAV); Hòa Phát (HPG, chiếm 2,54% NAV)...
Từ chối câu trả lời đâu là thương vụ "đình đám" của VOF, Andy Ho chỉ tiết lộ, mang về lợi nhuận đáng kể cho VOF sau khi thoái vốn có thể kể đến như: khoản đầu tư vào Bệnh viện Hoàn Mỹ, Vinamilk, Kinh Đô và Halico.
Riêng Halico, tháng 1/2011, VOF bán 23,6% cổ phần tại Công ty CP Cồn Rượu Rượu Hà Nội cho Diageo, thu về 51,6 triệu USD, với IRR đạt 67,4% sau hơn 4 năm đầu tư. Sau thương vụ này, NAV của VOF tăng 4,1% và chứng chỉ quỹ tăng 9,8 cent/chứng chỉ.
Gần đây, VOF cũng đạt được lợi nhuận vững chắc một số đó, có thể kể đến cú "lội ngược dòng" của VOF khi thoái vốn khỏi Prime Group.
Tháng 4/ 2010, VOF chi 15 triệu USD để sở hữu 7,1% cổ phần của nhà sản xuất gạch ốp lát, vật liệu xây dựng hàng đầu Việt Nam, chiếm 30% thị phần (Prime Group được định giá hơn 211 triệu USD) với 6 nhà máy và hệ thống phân phối trên toàn quốc. Tuy nhiên, đến năm 2012, giá trị khoản đầu tư vào đây bị giảm do thị trường bất động sản và vật liệu xây dựng đóng băng.
Cuối năm 2012, SSG (tập đoàn xi măng hàng đầu Thái Lan Siam Cement) mua lại 85% cổ phần của Prime Group. Đến đầu năm 2013, VOF hoàn thành việc bán cổ phần cho SSG với giá trị chuyển nhượng 32,6 triệu USD. Như vậy, sau gần 3 năm đầu tư, VOF đã kiếm được 17,6 triệu USD với tỷ suất hoàn vốn nội bộ lên đến 38%.
Theo ông Andy Ho, phải mất từ 6 - 12 tháng VOF mới đi đến thương vụ với SCG, song IRR của khoản đầu tư này có thể cao hơn mức mà truyền thông đã phân tích. Chưa đầy 3 năm, món lợi nhuận này của VOF xem ra không phải tệ!
Dragon Capital lãi to từ Sacombank?
Đầu tư vào một loạt cổ phiếu nóng của Việt Nam như REE, PVD, FPT, DPM, Vinamilk và Masan (MSN), nhưng thương vụ bán lại hơn 61 triệu cổ phiếu STB sau 10 năm nắm giữ mang lại khoản tiền mặt lớn đối với Dragon Capital.
Theo báo cáo cập nhật của Dragon Capital, trong tháng 5/2013, giá trị tài sản ròng (NAV) của VEIL - quỹ đầu tư cổ phiếu lớn nhất, với quy mô xấp xỉ 500 triệu USD, do Dragon Capital quản lý đã tăng 9,3%, đạt 3,05 USD/chứng chỉ quỹ. Đây là mức tăng nhẹ và thua đà tăng của VN-Index, nhưng tính chung từ đầu năm tới nay, NAV của VEIL tăng 28,2%, cao hơn đà tăng của VN-Index 1,7%.
Trong danh mục của VEIL, REE là khoản đầu tư hiệu quả nhất tháng 5 với mức tăng 41%. Xếp sau là các cổ phiếu PV Drilling (PVD) (tăng 24,8%), FPT (tăng 19,4%), Đạm Phú Mỹ (DPM) (tăng 19%), GAS (tăng 16,6%), HPG (tăng 19%)... Các khoản đầu tư vào Vinamilk (VNM), Masan (MSN), Vietcombank (VCB) cũng tăng nhưng không bằng mức tăng của VN-Index (9,8%).
Tại thời điểm cuối tháng 5, khoản nắm giữ của Dragon Capital ở Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng Quân Đội (MBB) cho hiệu quả thấp khi tăng tương ứng 7,3% và 5,3%. Các cổ phiếu nhỏ thuộc ngành quỹ, dược phẩm, tiêu dùng cũng chỉ tăng trong mức 5 - 7%.
Tính đến cuối tháng 5, báo cáo Dragon Capital cho biết, Quỹ VEIL phân bổ vốn như sau: 1,1% vốn của Quỹ rót vào cổ phiếu OTC, 1,2% vốn rót vào cổ phiếu tư nhân, tiền và tương đương tiền 1,6% vốn, còn lại đầu tư cổ phiếu niêm yết/phái sinh. Nếu xét theo ngành, F&B mà cụ thể là Vinamilk là ngành được rót vốn nhiều nhất, chiếm 29,8%..
Đối với quỹ VGF, quỹ đầu tư lớn có quy mô 270 triệu USD, NAV tới cuối tháng 5 đạt 21,32 USD/chứng chỉ quỹ, tăng 7,5% so với tháng trước và tăng 24,5% so với đầu năm. Mức tăng của VGF trong tháng 5 thấp hơn so với VN-Index là do các khoản đầu tư vào MSN, HAG... cho hiệu quả thấp.
Theo báo cáo của Dragon Capital, giá của MSN đã gần như không thay đổi kể từ đầu năm 2013. Với HAG, do tổ chức phi chính phủ lên tiếng cảnh báo về các dự án của HAG ở Lào, Campuchia, nhà đầu tư có lý do để lo ngại.
khó khăn nhất của năm 2013. Được biết, công ty mẹ Dragon Capital Group cũng nắm 30% cổ phần của tòa nhà một nhóm nhà đầu tư do Warburg Pincus làm đại diện, chi 200 triệu USD mua 20% cổ phần của hệ thống trung tâm thương mại Vincom Retail thuộc Vingroup.
So với quy mô của Quỹ VEIL và Quỹ VGF, Quỹ VPF khá nhỏ, với giá trị tài sản ròng hiện chỉ ở mức 64 triệu USD. Trong đó khoảng 35% là tiền mặt, 12% là cổ phiếu bất động sản và 1/2 là đầu tư vào các dự án bất động sản. Xét thời điểm gần hơn, từ 6-13/6/2013, Quỹ VEIL và VGF có đôi chút thay đổi so với cuối tháng 5.
Top 5 khoản đầu tư chiếm NAV lớn của VEIL là VNM (31,19%), Masan (15,15%), ACB (9,23%) REE (7,52%) và HPG (5,88%). Ở VGF, top 5 thuộc về VNM (40,38%), MSN (18,32%), REE (4,98%), DPM (4,19%), HAG (3,97%).
Chiến lược đầu tư của các quỹ thuộc Dragon Capital là đầu tư lâu dài. Ông Phạm Nguyễn Vinh, Giám đốc Phát triển kinh doanh Quỹ Đầu tư Dragon Capital, từng chia sẻ: "Các quỹ đầu tư của chúng tôi cam kết đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp Việt Nam với thời gian nắm giữ trung bình cho mỗi khoản đầu tư là từ 5 đến 7 năm".
Vì thế, cơ cấu danh mục thường ít biến động. Tuy nhiên, thị trường từng chứng kiến các hoạt động mua bán rất sôi nổi và đáng chú ý của Dragon Capital. Thương vụ nổi đình nổi đám của Dragon Capital trong năm 2011 là bán lại hơn 61 triệu cổ phiếu Sacombank (STB) sau 10 năm nắm giữ.
Theo thông tin báo chí đăng tải thì VEIL đã thu về hơn 40 triệu USD từ bán cổ phiếu Sacombank. Thương vụ này đã giúp VEIL ghi nhận lãi nhưng không quá cao.
Trước đó, năm 2010, Dragon Capital cũng gây chú ý cho thị trường khi chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của Dragon Capital tại dự án liên doanh khai thác mỏ Núi Pháo (Nuiphaovica) cho Massan. Cả hai không tiết lộ số tiền chuyển nhượng nhưng theo các thông tin không chính thức, đây là khoản chuyển nhượng không sinh lời.
Ngoài hai giao dịch kể trên, các quỹ của Dragon Capital cũng tiến hành những giao dịch, như năm 2011, các quỹ của Dragon Capital đã rút vốn khỏi Coteccons (CTD) Công ty CP Phát triển hạ tầng kỹ thuật( IJC).
Không có thông tin về lời lỗ ở các khoản đầu tư này nhưng căn cứ vào diễn biến giá cổ phiếu ở thời điểm các quỹ Dragon Capital đăng ký bán ra, việc rút vốn ở CTD, IJC không tạo lãi lớn. Thậm chí, có khoản đầu tư, Dragon Capital còn chịu lỗ.
Theo báo cáo của Dragon Capital, trong tháng 2/2012, Quỹ VPF đã đạt được thỏa thuận bán cổ phiếu Công ty CP Đầu tư Phát triển Đô thị và Khu Công nghiệp Sông Đà (SJS) cho một nhà đầu tư trong nước.
Trên cơ sở đánh giá những tranh chấp ở SJS có thể gây ra những thiệt hại không kiểm soát, Quỹ VPF đã đồng ý bán cổ phiếu SJS với giá thấp hơn 15% so với giá thực hiện vào ngày giao dịch và chịu lỗ 45% so với giá vốn ban đầu. Ở thời điểm cuối tháng 1/2012, cổ phiếu SJS là một trong những khoản đầu tư lớn của VPF, chiếm 3,58% NAV của quỹ này.
Dragon Capital là một trong những quỹ có mặt sớm nhất tại thị trường chứng khoán Việt Nam. Đây cũng là quỹ có những hoạt động tích cực và quy mô vốn lớn.
Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, cho đến thời điểm hiện tại, dựa trên các thương vụ mua bán của Dragon Capital, các quỹ của Dragon Capital dường như đã hoạt động không thực sự thành công hay đạt hiệu quả như mong đợi. Dù vậy, sự xuất hiện và bám trụ của các quỹ thuộc Dragon Capital đã mang đến nhiều ý nghĩa cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thú vị với chuyện tiền thơm từ khử mùi

Bên cạnh đó còn có sự du nhập của các nhãn hiệu như: Adidas, Esprit, David Beckham, Miss sixty, Playboys... do Công ty Ngôi sao châu Á (StarAsia) nhập khẩu. Mới đây, thương hiệu AXE xuất hiện trong khi thị trường chất khử mùi dành cho nam giới đang là cuộc chơi của những thương hiệu lớn như Romano, Niviea và Rexona... càng làm thị trường thêm khuấy động.
Axe đang có nhiều hoạt động quảng bá tại thị trường Việt Nam
Cuộc chơi không đơn lẻ
Cách đây 5 năm, các sản phẩm khử mùi, sữa tắm... tại thị trường Việt Nam được nhập khẩu chủ yếu từ Malaysia, Trung Quốc và Thái Lan, trong đó Thái Lan chiếm đến 45% thị phần. Ba năm sau (năm 2011), ngành chất khử mùi ở Việt Nam đạt mức tăng trưởng kỷ lục 19%, trong đó có một phần nguyên nhân là do sự tăng giá của các sản phẩm này.
Thời điểm này, Beiersdorf AG với thương hiệu Nivea (dạng xịt và dạng lăn) đang tiếp tục dẫn đầu thị trường với thị phần 39,7%. Mặc dù một năm trước đó, thông tin từ website pr-inside.com cho rằng, ngành này chỉ đạt giá trị tăng trưởng 9%.
Tuy nhiên, theo thống kê của Tổng cục Hải quan, sản phẩm Nivea chủ yếu nhập khẩu từ Thái Lan với giá trị nhập khẩu là 22,7 triệu USD. Trong khi đó, sản phẩm AXE và Rexona của Unilever Việt Nam nhập chủ yếu từ Úc và Philippines với giá trị nhập khẩu trong năm 2011 là 2,17 triệu USD (chiếm 3,8% thị phần).
Mới đây, một thống kê được viện dẫn từ báo chí Trung Quốc chỉ ra rằng, ngành khử mùi đang được xếp vào nhóm Top 2 trong 13 ngành hàng được cho là siêu lợi nhuận ở Trung Quốc. Riêng tại Việt Nam, mức độ tăng trưởng của ngành này đạt 24,4% năm 2012, cao hơn cả ngành nước đóng chai và một số ngành hàng trong nhóm FMCG.
Dự báo trong những năm tới, đây vẫn là ngành tiếp tục tăng trưởng, mặc dù không đạt ngưỡng như năm 2012, thời điểm mà các "ông lớn" như: Beiersdorf AG (Nivea), Unilever PLC (Rexona và AXE), ICP (X-men)... không ngừng tung nhiều chiến dịch quảng cáo lớn về sản phẩm.
Đến nay, "cuộc chơi" xem ra đã không còn đơn lẻ, khi thị trường Việt Nam đã quy tụ đến hàng chục thương hiệu trong ngành chất khử mùi bao gồm các sản phẩm dạng viên lăn, xịt cơ thể, nước thơm khử mùi (dạng chai xịt, kem, gel...) như: Beiersdorf AG; Unilever PLC; ROHTO Pharmaceutical Co.,Ltd; Avon Products, Inc; Oriflame Cosmetics S.A, Lan Hao Cosmetics Production Limited Company...
Bên cạnh đó còn có sự du nhập của các nhãn hiệu như: Adidas, Esprit, David Beckham, Miss sixty, Playboys... do Công ty Ngôi sao châu Á (StarAsia) nhập khẩu. Mới đây, thương hiệu AXE xuất hiện trong khi thị trường chất khử mùi dành cho nam giới đang là cuộc chơi của những thương hiệu lớn như Romano, Niviea và Rexona... càng làm thị trường thêm khuấy động.
Vừa đấu, vừa nhìn
Theo khảo sát vào tháng 4/2013 của Kantar Worldpanel Việt Nam, các sản phẩm chăm sóc cá nhân tại thành thị tăng trưởng mạnh nhất, ở mức 15%, chủ yếu thuộc các ngành hàng dành cho em bé, dầu xả và lăn khử mùi.
Chia sẻ về tiềm năng của ngành khử mùi, ông Phùng Ngọc Trang, Phó tổng giám đốc Kinh doanh Công ty ICP (International Consumer Products), cho rằng, đây là một trong hai ngành (khử mùi và mỹ phẩm) có tỷ suất lợi nhuận tương đối cao so với các ngành hàng khác trong giai đoạn hiện nay.
Đó cũng là lý do mà các nhà sản xuất trong lĩnh vực này vẫn không ngừng tung tiền cho quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và chiếm giữ nhiều giờ vàng trên kênh truyền hình từ trung ương đến địa phương...
Bên cạnh đó, các nhà sản xuất cũng không ngừng tung ra nhiều sản phẩm mới, điển hình là các sản phẩm khử mùi dạng xịt đang được bày bán ở các siêu thị và cửa hàng mỹ phẩm tại TP.HCM, mặc dù loại sản phẩm này đã được dùng rất phổ biến ở các nước phát triển.
Chỉ riêng Co.opmart đã hội tụ khá đủ những "gương mặt" mới và cũ trong ngànhnhư: Rexona, Dove, Nevia, Playboys, Adidas, Axe, Oxi, Romano, X-men... Trong khi đó, hệ thống các cửa hàng mỹ phẩm như Guadian (Dairy Farm Group) cũng không kém cạnh với đầy đủ các loại sản phẩm khử mùi từ dạng lăn, đến xịt.
Theo ông Trang, trong tương lai, thị trường ngành khử mùi sẽ dần chuyển hẳn sang các sản phẩm dạng xịt, thì Rexona, AXE (Unilever PLC) và X-men (ICP) đang được xem là những sản phẩm có nhiều ưu thế hơn.

Chia sẻ cùng bạn việc trữ trăm tấn vàng, người Việt thiệt hại ngàn tỷ

Sau đó, lại tiếp tục đầu cơ mua vào lúc giá lên 44 triệu đồng/lượng và bán ra lúc 46 triệu đồng/lượng. Với dự báo giá vàng còn tăng nên đã quyết định làm vụ lớn, vay thêm vốn mua vàng lúc giá đạt ngưỡng 47 triệu đồng/lượng, hy vọng bán ra ở mức xấp xỉ 50 triệu đồng/lượng, nhưng giá không tăng thêm mà đi theo chiều hướng giảm.
Trữ nhiều vàng, thiệt hại lớn
Căn cứ vào số liệu thống kê của các ngân hàng Thụy Sĩ, nơi cung vàng chủ yếu cho thị trường Việt Nam, tổng lượng vàng nhập về Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2011 khoảng 500 tấn. Trong đó năm thấp nhất là 5 tấn và cao nhất là 80 tấn.
Cũng trong khoảng thời gian này, lượng vàng miếng xuất sang các ngân hàng Thụy Sĩ trung bình khoảng 1 tấn mỗi năm, tối đa đạt 20 tấn/ năm trong giai đoạn 2007 - 2009. Lượng vàng gửi tiết kiệm tại các ngân hàng Việt Nam khoảng 100 tấn. Như vậy, khoảng 400 tấn vàng còn lại vẫn được nắm giữ rải rác trong dân.
Tuy nhiên, số liệu từ Hội đồng Vàng thế giới cung cấp còn lớn hơn rất nhiều. Theo đó, vàng dự trữ trong dân ở Việt Nam khoảng 1.072 tấn. Đây là con số cộng dồn từ các hóa đơn mua bán vàng của Việt Nam ở nước ngoài từ năm 2000 đến nay. Việt Nam xếp vị trí khoảng thứ 5 thế giới về lượng vàng dự trữ.
Ngoài ra còn số liệu nghiên cứu của Hiệp hội Khai thác vàng ở Anh (GFMS) công bố thì số lượng vàng mà người dân Việt Nam tích trữ vào khoảng 460 tấn.
Như vậy, theo số liệu từ các cơ quan, hiện số vàng do người dân Việt Nam đang sở hữu ước tính từ 400- 1.000 tấn, tương đương với 16-41 tỷ USD, theo giá hiện nay.
Trong 2 tháng qua, giá vàng trong nước đã giảm hơn 3 triệu đồng/lượng. Theo tính toán, giá vàng cứ giảm 1 triệu đồng/lượng thì số tiền những người tích lũy vàng cả nước sẽ mất đi khoảng từ 10.400 tỷ đồng đến 26.000 tỷ đồng.
Đây là con số thiệt hại quá lớn cho những ai tích trữ vàng, nhất là với những người mua số lượng lớn lúc giá cao đến nay vẫn giữ. Thậm chí, nếu tính giá đỉnh điểm trong những năm qua là 49 triệu và cao nhất trong năm nay gần 47 triệu/lượng, thì thiệt hại mà người nắm vàng gánh chịu còn lớn hơn.
Theo ông Nguyễn Việt Anh, Phó Tổng Giám đốc TienPhong Bank, trong ngắn hạn, giá vàng sẽ chịu áp lực bán mạnh. Với những tác nhân từ sự sụt giảm của giá thế giới có thể về dưới 1200usd/ounce.
Ở trong nước, với việc các NH có trạng thái âm phải tất toán trước 30/6 có thể cho thấy lực mua sau 30/6 sẽ không còn như thời điểm gần đây, điều này dẫn đến giá vàng Việt Nam sẽ nhanh chóng giảm khoảng cách so với giá thế giới quy đổi. Sau 30/6 khoảng cách này hợp lý sẽ ở mức 2 triệu đến 3 triệuVNĐ.
Như vậy, giá vàng trong nước có thể chịu cảnh mất giá “kép” và giá vàng càng giảm mạnh, càng làm cho thiệt hại về vàng tăng lên.
Vàng vào giai đoạn rủi ro
Một nhà đầu cơ vàng đã từng thắng lớn trong những năm qua lại đang bị thua thiêt và mắc kẹt trong đợt giảm giá vàng lần này tâm sự: đầu năm trước, khi giá vàng ở mức 39 triệu đồng ông đã mạnh dạn đầu cơ, mua vào vài trăm cây 1 lúc, khi giá tăng lên tới 43 triệu đồng đã bán ra hết thu về khoản lời lớn.
Sau đó, lại tiếp tục đầu cơ mua vào lúc giá lên 44 triệu đồng/lượng và bán ra lúc 46 triệu đồng/lượng. Với dự báo giá vàng còn tăng nên đã quyết định làm vụ lớn, vay thêm vốn mua vàng lúc giá đạt ngưỡng 47 triệu đồng/lượng, hy vọng bán ra ở mức xấp xỉ 50 triệu đồng/lượng, nhưng giá không tăng thêm mà đi theo chiều hướng giảm.
“Cứ chần chừ đợi giá lên, mãi không bán đến lúc vàng xuống 43 triệu đồng/lượng, thấy không hy vọng tăng mới bán thì đã lỗ nặng. Cả vốn lẫn lãi các lần trước không bù đắp nổi”, nhà đầu tư này tâm sự.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng giá vàng đang thấp nếu lúc này người dân có nhu cầu như phải trả nợ bằng vàng thì nên mua để thanh toán, còn mua để đầu tư sinh lợi thì không nên.
Giá vàng phụ thuộc nhiều yếu tố như sự ổn định, tăng trưởng hay suy thoái kinh tế, đặc biệt là kinh tế thế giới; tỉ giá hối đoái; giá của nhiều loại hàng hóa khác.
Bên cạnh đó, yếu tố đầu cơ của các tổ chức đầu tư và kinh doanh vàng lớn trên thế giới cũng rất quan trọng. Với tiềm lực tài chính mạnh, các tổ chức này có thể tạo ra lực cung - cầu đủ mạnh để tạo ra mức giá vàng mới cho thế giới. Vì vậy, việc kinh doanh vàng với quy mô lớn trở nên rất rủi ro đối với hầu hết nhà đầu tư cá nhân ở Việt Nam hiện nay.
Dù giá vàng trong nước có giảm mạnh nhưng so với giá thế giới vẫn chênh nhau hơn 6 triệu đồng/lượng. Trong ngắn hạn, giá vàng đang giảm nhưng nếu nhiều người vẫn đổ xô mua sẽ có thêm nhiều diễn biến bất ngờ.
Một là giá dừng lại, không giảm theo giá thế giới do nhu cầu mua vàng trong nước tăng lên, hai là nếu có giảm thì mức giảm không lớn. Cả hai trường hợp này người dân đầu tư vàng đều thiệt.
Về dài hạn càng không nên đầu tư vàng bởi giá vàng thế giới không phụ thuộc vào một nền kinh tế nào. Theo các chuyên gia, giá kim loại quý này có thể còn tiếp tục giảm, vì vậy không nên bị lôi kéo vào hoạt động mua vàng với số lượng lớn. Luôn đảm bảo rằng tài sản được đa dạng hóa và chỉ giữ vàng ở mức tối thiểu, không nên giữ tỷ lệ quá cao trong nguồn tài sản đầu tư.
Theo đó, tỷ lệ thích hợp trong danh mục tài sản của nhà đầu tư có thể từ 2-5%, tỷ lệ 5% được coi là "dũng cảm”. Cần có chiến lược thoát ra nhanh nếu vàng chiếm tỷ lệ trên 5% trong danh mục tài sản đầu tư, phải chủ động thời điểm bán vàng với giá cạnh tranh tốt nhất. Cần biết rõ khả năng dễ bị tổn thương của vàng, nhiều nhà đầu tư đã bị tổn thương với vàng do không nhận thức được điều đó.

Viettel trượt đấu thầu tại Myanmar như thế nào ?

"Người Myanmar có sự suy tính về đường dài và dựa trên cơ chế thị trường để chọn những người làm tốt nhất cho họ. Đây cũng là lý do mà trước đây tầm 2 tháng, họ đẩy China Mobile của Trung Quốc ra khỏi gói thầu viễn thông. Chính điều này vẽ lại bức tranh trong cuộc đua", ông cho hay.
Hội đồng Đánh giá và Sàng lọc nhà thầu viễn thông Myanmar (TOTSC) vừa công bố hai công ty được nhận giấy phép kinh doanh tại quốc gia này là Telenor của Na Uy và Ooredoo của Qatar. Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel ) - ứng viên duy nhất của Việt Nam tham gia cuộc đua này cùng 6 đại gia khác của làng viễn thông thế giới đã phải dừng cuộc chơi.
Viettel lỡ cơ hội thâm nhập thị trường viễn thông Myanmar. Ảnh: Open Telecom
Đại diện Viettel cho rằng, đây là một tin đáng tiếc đối với tập đoàn. Nhận định Myanmar là một thị trường rất tiềm năng, ngay từ khi tìm kiếm cơ hội đầu tư, bản thân doanh nghiệp cũng xác định phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh về mọi mặt, đến từ nhiều quốc gia trên thế giới.
Do đó, việc không giành được gói thầu cũng không quá bất ngờ. Vị đại diện Viettel cho biết tập đoàn có những dự định tương lai mà hiện nay chưa thể tiết lộ.
Đánh giá về sự kiện này, lãnh đạo một doanh nghiệp lớn cũng đang đầu tư sang Myanmar cũng chia sẻ nhận định, việc nhà mạng hàng đầu Việt Nam bị loại khỏi gói thầu viễn thông không phải là điều bất ngờ.
"Hai đơn vị giành được gói thầu có tiềm lực rất 'khủng', bên cạnh đó, các đối thủ khác cũng mạnh. Tập đoàn Viettel đã lường trước được những khó khăn của mình", vị này nhận định.
Cho rằng đây là việc đáng tiếc cho Viettel trong cuộc đua ròng rã với 91 ứng cử viên khác, tuy nhiên, ông cho rằng đây là lựa chọn hợp lý của Myanmar.
"Người Myanmar có sự suy tính về đường dài và dựa trên cơ chế thị trường để chọn những người làm tốt nhất cho họ. Đây cũng là lý do mà trước đây tầm 2 tháng, họ đẩy China Mobile của Trung Quốc ra khỏi gói thầu viễn thông. Chính điều này vẽ lại bức tranh trong cuộc đua", ông cho hay.
Vị lãnh đạo này cũng nhận định, lựa chọn trên của Myanmar có vẻ nhằm cân bằng giữa nguồn lực tài chính và công nghệ. Trong 2 đối tác trúng thầu, Telenor rất có kinh nghiệm về công nghệ, đã phát triển mạnh tại các nước châu Mỹ - Latinh, còn Ooredoo lại mạnh về tài chính.
Đồng tình với quan điểm của đại diện trên, một lãnh đạo của Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài chia sẻ, lý do Myanmar không chọn Viettel có thể liên quan nhiều tới vấn vấn đề công nghệ và quản lý khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
"Viễn thông là một lĩnh vực công nghệ cao nên tâm lý của nước sở tại bao giờ cũng muốn chọn những hãng, tập đoàn lớn có công nghệ, quản lý tốt. Trong khi đó, Viettel chưa có nhiều danh tiếng trên thế giới, vẫn phải mua thiết bị từ nước ngoài", ông nhận xét.
Bên cạnh đó, theo vị này, Viettel cũng vấp phải khó khăn vì thị trường Myanmar đang được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm nên tính cạnh tranh rất khốc liệt, đặc biệt là lĩnh vực viễn thông vốn bị quản chặt về số lượng tham gia.
So sánh với những lần trúng thầu của Viettel tại Mozambique, Lào hay Campuchia, ông cho rằng đây là những thị trường khác hẳn với Myanamr. "Đó là những mảnh đất nhỏ và chưa có nhiều nhà đầu tư thực sự có tiềm lực nhòm ngó", ông nhận định.
Chia sẻ trên Reuters, Jeremy Sell - Giám đốc chiến lược của Ooredoo cho biết đã lên kế hoạch đầu tư 15 tỷ USD trong vòng 15 năm tại Myanmar, bao gồm vốn đầu tư ban đầu, chi phí vận hành, phí lấy giấy phép và thuế. Còn Telenor chưa có tiết lộ cụ thể về những con số này.
Về những kinh nghiệm trong việc đầu tư tại quốc gia này, vị lãnh đạo doanh nghiệp trên cho rằng người Myanmar không chịu sức ép của lợi ích nhóm, hoặc bị hấp dẫn lớn bởi những giá trị ảo.
"Điều này giúp những lựa chọn của họ hiện rất tốt, vì giá trị và quyền lợi thật. Do đó, một thông điệp cho doanh nghiệp Việt khi đầu tư vào Myanmar là tập trung vào giữ uy tín và chất lượng các dịch vụ, sản phẩm mới có thể đứng vững trên thị trường", vị này cho hay.

Chia sẻ với bạn về cuộc chiến thương hiệu Việt

Năm 2009, một số tiệm phở ở TP.HCM và các tỉnh thành khác phải chấp nhận bị đóng cửa. Trong tập tự truyện Bầu trời không chỉ có màu xanh (dự kiến phát hành vào đầu tháng 7.2013), TS Lý Quí Trung cho biết có nhiều nguyên nhân khiến ông ra quyết định cuối cùng này. Trong đó, nguyên nhân chính là từ nguồn tài chính mới cần thiết để phát triển hệ thống như: hiện đại hóa nhà xưởng, làm marketing, quảng cáo, nâng cấp toàn bộ hệ thống cửa hàng sau 10 năm mà ông Trung miêu tả là “như người chiến binh già cần bộ áo giáp mới” và những dự án mở cửa hàng ra quốc tế. Tất cả cần rất nhiều tiền. Hơn nữa, thời điểm này, sau 5 năm, cổ đông chiến lược của Phở 24 là Quỹ đầu tư VinaCapital cũng rục rịch thoái vốn theo thông lệ của một quỹ đầu tư.
Bị thâu tóm, không chịu nổi sức ép tài chính, sự đơn độc trên con đường phát triển, hụt hơi trong hội nhập, chủ động chuyển nhượng, thậm chí bị lừa gạt... chỉ trong vòng một thập niên qua, hàng loạt thương hiệu lớn của VN đã hoặc biến mất, hoặc bị đổi chủ.
Phở 24 đã trở thành quen thuộc với nhiều người - Ảnh: N.Nga
Mỗi thương hiệu một lý do nhưng nó đang khiến kỳ vọng xây dựng thương hiệu quốc gia bền vững như Samsung của Hàn Quốc, Honda của Nhật... trở nên xa vời.
Một buổi sáng đầu năm 2012, tôi nhận được cuộc điện thoại của TS Nguyễn Xuân Xanh, Việt kiều Đức, tác giả quyển sách best seller Huyền thoại Einstein với giọng điệu đầy lo âu: “Phở 24 nghe nói được bán cho một công ty của Thái rồi. Nếu tin này là thật thì tiếc cho VN mình quá, một thương hiệu phở sạch đẹp lại mất đi...”. TS. Xanh có thói quen cứ 3 buổi sáng những ngày lẻ, sau khi đi bơi, ghé vào tiệm Phở 24 ở Grand View, Phú Mỹ Hưng “làm” một tô bởi theo ông, “quán có không gian văn minh, phục vụ chuyên nghiệp, khẩu vị không quá nặng mùi gia vị, hợp với Tây lẫn ta”.
Người làm "sang" món phở
Thực tế, tại thời điểm đó, Công ty cổ phần Việt Thái Quốc tế (VTI), chủ thương hiệu Highlands Coffee đã là chủ nhân mới của chuỗi thương hiệu Phở 24 và đã bán 49% bộ phận kinh doanh của VTI (Highlands Coffee và Phở 24) tại VN cho JolliBee của Philippines. Giá trị của thương vụ VTI-JolliBee được tiết lộ là khoảng 25 triệu USD. Như vậy, thông tin riêng Phở 24 được chuyển nhượng cho VTI trước đó với giá 20 triệu USD cũng có cơ sở. Phía VTI và Phở 24 đến nay chưa có bất kỳ phát biểu nào về con số này.
Ngược thời gian 10 năm trước, tháng 6.2003, tiệm Phở 24 đầu tiên được khai trương tại TP.HCM. TS Lý Quí Trung, nhà sáng lập thương hiệu Phở 24 trở thành người tiên phong trong việc tạo ra khái niệm thức ăn nhanh VN. Từ tô phở bình dân của người Việt, doanh nhân Lý Quí Trung nâng cấp thành món ăn sang trọng, đặt để trong không gian hiện đại và có cá tính hơn. Ngay lập tức, Phở 24 được để ý và chấp nhận, cho dù nhiều khách hàng nhận xét, không tìm thấy được mùi vị truyền thống đặc trưng của tô phở Việt. Nhưng có sao đâu, đến cuối năm 2004, “tiệm phở có máy lạnh” đầu tiên đã có mặt tại Hà Nội, thủ phủ của món phở truyền thống. Ông Trung nói: “Chúng tôi không chỉ bán phở mà còn bán không khí ăn phở, cảm giác ăn phở”.
Đến đầu 2005, nhiều vị trí đắc địa tại TP.HCM như Phú Mỹ Hưng và các thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, Bình Dương... đều xuất hiện tiệm Phở 24 bằng mô hình nhượng quyền. 6 tháng sau, Phở 24 bắt đầu xuất ngoại, sang thủ đô Jakarta, Indonesia, đúng với chiến lược ông Trung đưa ra ban đầu là “trở thành người đầu tiên phát triển trên mạng lưới toàn cầu cho chuỗi cửa hàng phở”. Chiến lược kinh doanh của Phở 24 là đánh trực diện vào thị trường ở trung tâm, cho dù mặt bằng cao gấp 5 - 7 lần và không đi đường vòng.
Năm 2009, tại diễn đàn CEO do Tổ chức Asia Society có trụ sở đặt tại thành phố New York tổ chức, TS Lý Quí Trung đã có cuộc trò chuyện về quá trình khởi nghiệp và xây dựng Phở 24 thành một thương hiệu quốc tế. Ông nói, mấy năm qua là giai đoạn Phở 24 thăm dò thị trường nước ngoài để tìm ra mô hình lý tưởng nhất để nhân rộng, năm 2010 sẽ là cái mốc mới trong chiến lược nhân rộng quốc tế của Phở 24.
Doanh thu của Phở 24 trong năm 2010 tăng nhanh và đến khi chia tay thương hiệu, cuối năm 2011, trong vòng chưa được 10 năm, đã có khoảng 60 tiệm trong nước và 20 tiệm Phở 24 ở nước ngoài, chủ yếu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bằng mô hình nhượng quyền. Tốc độ nhượng quyền của thương hiệu này được đánh giá nhanh hơn cả KFC vì chuỗi gà rán Mỹ này phải mất 13 năm mới mở được 80 nhà hàng tại VN trong thời kỳ đầu. Trả lời tạp chí Forbes Asia đầu năm 2011, ông nói: “Theo tôi thì tương lai của Phở 24 là ở nước ngoài. Trong 5 năm tới, tôi hy vọng có thể mở rộng thương hiệu ra thị trường thế giới”. Mỹ và châu Âu là hai thị trường lớn mà ông Trung đặt tham vọng sẽ đưa thương hiệu Phở 24 đến trong một ngày không xa.
Quyết định ra đi
Với những bước đi bài bản và thành công nói trên, Phở 24 đã dấy lên niềm hy vọng về định vị món "quốc hồn, quốc túy", phở của người Việt trên toàn cầu. Nhưng sau 9 năm đeo đuổi tham vọng này, thương hiệu Phở 24 được chủ nhân của nó âm thầm chuyển nhượng cho một đối tác khác. Lý do nào khiến doanh nhân này bán đi thương hiệu tự hào và tâm huyết của mình? Không trả lời trực tiếp nhưng cách đây một năm, ông Trung chỉ nói đơn giản rằng, nếu chuyển nhượng để thương hiệu phát triển tốt hơn và có nhiều thời gian tập trung cho việc khác thì nên làm.
Trong các thương hiệu Việt đã và đang có nguy cơ bị các công ty ngoại thâu tóm hoặc bị xóa sổ trước áp lực tài chính, Phở 24 không nằm trong số đó. Phở 24 chủ động nhượng thương hiệu và bán với giá tốt nhưng không thể phủ nhận, sau thời gian phát triển khá nóng và ghi điểm tốt trong mắt người tiêu dùng, thương hiệu Phở 24 đã bị chựng lại. Kinh tế năm 2008 gặp nhiều khó khăn, lượng khách đến với Phở 24 giảm dần khiến một số nhà nhận nhượng quyền khó lòng trụ lại lâu, phải đóng cửa.
Năm 2009, một số tiệm phở ở TP.HCM và các tỉnh thành khác phải chấp nhận bị đóng cửa. Trong tập tự truyện Bầu trời không chỉ có màu xanh (dự kiến phát hành vào đầu tháng 7.2013), TS Lý Quí Trung cho biết có nhiều nguyên nhân khiến ông ra quyết định cuối cùng này. Trong đó, nguyên nhân chính là từ nguồn tài chính mới cần thiết để phát triển hệ thống như: hiện đại hóa nhà xưởng, làm marketing, quảng cáo, nâng cấp toàn bộ hệ thống cửa hàng sau 10 năm mà ông Trung miêu tả là “như người chiến binh già cần bộ áo giáp mới” và những dự án mở cửa hàng ra quốc tế. Tất cả cần rất nhiều tiền. Hơn nữa, thời điểm này, sau 5 năm, cổ đông chiến lược của Phở 24 là Quỹ đầu tư VinaCapital cũng rục rịch thoái vốn theo thông lệ của một quỹ đầu tư.
Bên cạnh đó, chính sự phát triển ồ ạt đã tạo lỗ hổng quản trị hệ thống, đặc biệt lớp nhân sự cao cấp. Ông Trung từng lường trước và đã viết trong 2 quyển sách về nhượng quyền, thế nhưng, khi xảy ra, Phở 24 lại không thể miễn nhiễm được. Rồi thử thách trước hàng loạt thương hiệu thức ăn nhanh đổ bộ vào VN, Phở 24 khó đương đầu để tìm lại chính mình như thuở sơ khai. Có một chi tiết, trong lịch sử kinh doanh, vay ngân hàng chưa bao giờ là ưu tiên hàng đầu của ông Trung. Trước những khó khăn về tài chính, ông cũng từ chối tìm đến ngân hàng với lý do thật đơn giản: “Tôi không muốn phải chịu thêm nhiều áp lực từ những khoản lãi phát sinh và không muốn đặt số phận mình vào tay người khác”. Cũng chính quan điểm này nên ông Trung từ chối bán bớt cổ phần lần nữa (5 năm trước đã bán 30% cổ phần cho VinaCapital) bởi theo ông, thật khó chấp nhận việc bị mất quyền kiểm soát với công ty do mình sáng lập.
Lý Quí Trung và gia đình ra quyết định phải bán hết. Và sau 11 tháng đàm phán, thương hiệu Phở 24 của Nam An Group được nhượng về cho VTI. Xét về lợi ích tài chính của thương vụ và tình hình kinh tế VN trong những năm gần đây, việc nhượng lại thương hiệu Phở 24 quả là quyết định khôn ngoan. Tiếc một điều, Lý Quí Trung phải sớm tạm biệt hoài bão và cả giấc mơ xây dựng một thương hiệu Phở Việt trên thị trường thế giới của mình.
Từ  những kinh nghiệm của nhà kinh doanh mô hình nhượng quyền đầu tiên của VN, ông Trung đã viết quyển sách đầu tiên về đề tài nhượng quyền thương mại (franchise) Franchise - Bí quyết thành công bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh và Mua Franchise - Cơ hội mới cho các doanh nghiệp VN liên tục nằm trong danh sách “best seller” năm 2005 và 2006. Chính bởi thành công từ mô hình kinh doanh nhượng quyền, ông được mời làm cố vấn đặc biệt cho Trung tâm nghiên cứu nhượng quyền châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Center of Franchising Excellence) có trụ sở tại Úc.

Mời bạn tham khảo qua 50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam

Chúng tôi luôn mong muốn có thể xếp hạng các công ty quy mô lớn và quy mô nhỏ thành 2 nhóm riêng nhằm phản ánh chính xác hiệu quả quản trị doanh nghiệp ở từng công ty. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn thường có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và đòi hỏi năng lực quản lý không phức tạp như các doanh nghiệp có quy mô lớn.
"Top 10" đón nhận 4 gương mặt mới và 2 công ty tăng hạng. Các công ty phân phối khí, xuất khẩu cao su thiên nhiên vốn không cần nhiều vốn đầu tư mở rộng sản xuất, lại có ưu thế về giá bán trong 2 năm vừa qua nên 5 công ty này vẫn nằm trong "Top 10" như nằm ngoái. Hà Đô, Nhựa Bình Minh là 2 doanh nghiệp bất động sản và vật liệu xây dựng đã rời khỏi "Top 10", nhường chỗ cho sự tăng hạng của Vinacafe Biên Hòa, Cảng Đình Vũ, Thiết bị Y tế Việt Nhật và Cao su Tây Ninh.
Kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, doanh nghiệp chao đảo
Kinh tế Việt Nam vừa trải qua năm 2012 hết sức khó khăn, tăng trưởng GDP ở mức 5,03%, mức thấp nhất từ năm 2000 đến nay. Bảng xếp hạng “50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam” 2013 cũng ít nhiều bị ảnh hưởng và sự xáo trộn vị trí của các doanh nghiệp trong bảng xếp hạng đã phản ánh khá sát tình hình khó khăn này.
Chịu ảnh hưởng chung từ biến động mạnh kinh tế thế giới, đà tăng trưởng các quốc gia châu Á đã chậm lại. Bảng số liệu so sánh với 3 quốc gia Thái Lan, Malaysia, Indonesia cho thấy tăng trưởng doanh thu của 50 doanh nghiệp hàng đầu trên thị trường chứng khoán ở các nước này đều chậm lại.
Cụ thể, doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng chậm lại ở nhóm ngành dầu khí (chiếm 34% lợi nhuận Top 50) đối với Thái Lan và ngân hàng (chiếm 35% lợi nhuận Top 50) đối với Indonesia đã kìm hãm đà tăng trưởng chung của Top 50 hai nước này.
Tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của Top 50 Việt Nam giảm mạnh hơn nhiều, từ mức trên 40% năm 2010 xuống còn 5% và 7% trong năm 2012. Điều đó cho thấy quản trị kinh tế vĩ mô ảnh hưởng sâu đến hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam như thế nào.
Từ năm 2008 đến 2012, Việt Nam liên tiếp trải qua các đợt bất ổn kinh tế vĩ mô. Trong giai đoạn này, chính sách tiền tệ được xem là công cụ chính của Việt Nam để ứng phó. Việc quá phụ thuộc vào công cụ này và thiếu sự phối hợp nhịp nhàng với chính sách tài khóa đã khiến lãi suất biến động quá nhanh và mạnh trong các năm qua.
Năm 2009, Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng, kéo lãi vay ngắn hạn xuống mức 6,5%/năm bằng cách hỗ trợ lãi suất 4%/năm khiến tín dụng tăng trưởng mạnh lên mức 37,5% so với đầu năm 2009.
Đầu năm 2010, chính sách tiền tệ và tài khóa được thắt chặt trở lại để kiềm chế lạm phát, nhưng đến giữa năm, trước áp lực khát vốn, Ngân hàng Nhà nước lại nới lỏng tiền tệ khiến tăng trưởng tín dụng cả năm tăng 31,2%.
Chính sách tiền tệ và tài khóa lại thắt chặt trong năm 2011, nhưng lạm phát cả năm vẫn tăng lên 18,13% so với tháng 12/2010 do ảnh hưởng từ việc nới lỏng tiền tệ các năm trước. Thêm vào đó, Ngân hàng Nhà nước đã tăng tỉ giá VND/USD 9,3%, lên mức 20.693 VND/USD đầu năm 2011, gây tác động mạnh đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Lãi vay VND đạt đỉnh 20-23%/năm trong quý III/2011, mở đầu cho giai đoạn đình trệ sản xuất và phá sản hàng loạt của doanh nghiệp trong năm 2012. Rõ ràng, môi trường kinh tế thiếu ổn định đã khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh và đầu tư dài hạn.
Ngành ngân hàng: Lợi nhuận giảm mạnh
Năm 2012, doanh thu doanh nghiệp niêm yết toàn thị trường tăng 0,7% nhưng lợi nhuận lại giảm 9%. Chủ yếu là do lợi nhuận ngành ngân hàng, đóng góp 27% lợi nhuận toàn thị trường, giảm 22%.
Tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 9%, mức thấp nhất trong vòng 20 năm, lỗ do đóng trạng thái vàng và dự phòng nợ xấu đã khiến lợi nhuận ngành ngân hàng giảm mạnh. Trong khi đó, lợi nhuận các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Thái Lan, Indonesia và Malaysia dù chậm lại nhưng vẫn tăng 25%, 21% và 11%.
Lợi nhuận giảm 96% đã khiến Ngân hàng SHB rời “Top 50”; Eximbank được thay thế bởi Vietcombank do lợi nhuận sau thuế Eximbank giảm 30%.
Bất động sản: 4/7 công ty rời Top 50, 3 công ty còn lại rơi khỏi Top 10
Nhóm ngành thứ hai tiếp tục đối mặt khó khăn là bất động sản, xây dựng và vật liệu xây dựng. Chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cho vay cao khiến sức mua và lượng giao dịch cực thấp, tồn kho tăng cao đã tạo ra áp lực tài chính rất lớn đối với các doanh nghiệp bất động sản.
Chịu ảnh hưởng từ khó khăn của thị trường bất động sản cùng chính sách cắt giảm đầu tư công của nhà nước, lĩnh vực xây dựng công nghiệp và dân dụng sụt giảm mạnh.
Các doanh nghiệp xây lắp, thép, xi măng chịu ảnh hưởng nặng nề. Lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp niêm yết thuộc nhóm ngành này giảm 45% trong năm 2012 và số lượng doanh nghiệp trong Top 50 chỉ còn lại 7 so với con số 13 năm ngoái.
Các doanh nghiệp lớn như Hoàng Anh Gia Lai, Thép Pomina đều rời bảng xếp hạng “50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam” năm 2013 khi lợi nhuận sụt giảm 70% và 90%. Tập đoàn Hà Đô đã rời vị trí số 1 năm ngoái xuống vị trí 26 do lợi nhuận năm 2012 giảm 81%.
Điều này phản ánh rất rõ việc bất động sản Việt Nam đang hứng chịu giai đoạn hạ nhiệt, sau khi vừa trải qua chu kỳ tăng trưởng nóng những năm trước. Trong khi đó, các công ty bất động sản Indonesia và Thái Lan vẫn có mức tăng trưởng lợi nhuận năm 2012 là 72% và 80%.
Doanh nghiệp có cổ phần chi phối Nhà nước thống trị “Top 10”
Lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam gắn liền với tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu trong “Báo cáo tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước” của Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, quá trình này khởi động từ năm 1992, diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn 2003-2006 với 2.649 doanh nghiệp được cổ phần (gấp 2,4 lần giai đoạn 1992-2002) và bắt đầu chậm lại từ 2007 đến nay.
Theo báo cáo trên, “tính đến năm 2011, chỉ mới có khoảng 30% sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước trở thành đối tượng của cổ phần hóa. Trong số 30 sở hữu nhà nước được cổ phần hóa này, nhà nước vẫn giữ tới 57%.
Điều này có nghĩa trong suốt quãng thời gian 20 năm cổ phần hóa, chưa tới 15% sở hữu nhà nước được chuyển sang các chủ sở hữu khác”. Do đó, 70% số công ty có mặt trong Top 50 vẫn do Nhà nước nắm tỉ lệ sở hữu cao (trung bình 43%), trong đó 12 công ty nhà nước sở hữu từ 51% đến 97%.
Bên cạnh đó, Top 10 bảng xếp hạng năm nay cũng do các công ty nhà nước nắm cổ phần chi phối thống trị, với 9/10 công ty đều do Nhà nước sở hữu từ 35%-69%, trừ Công ty Cổ phần Thiết bị Y tế Việt Nhật (JVC).
Điểm chung là các công ty này được thành lập rất sớm như Vinacafe (1975), Vinamilk (1976); các công ty cao su thiên nhiên thành lập đầu những năm 1980 và đều được cổ phần hóa trong khoảng thời gian 2003-2006, giai đoạn chương trình cổ phần hóa diễn ra mạnh mẽ.
Thời kỳ đầu đó hiếm có công ty tư nhân nào được tham gia vào ngành cao su, dầu khí hay sản xuất những sản phẩm thiết yếu như thuốc, gạo, sữa, phân bón… Được thành lập trên 30 năm, các công ty này đã trải qua giai đoạn đầu khó khăn để tiến đến quá trình tăng trưởng, tích lũy lợi nhuận để tái đầu tư và nắm giữ thị phần chi phối trong ngành.
Các công ty mới xâm nhập ngành không chỉ gặp rào cản về cạnh tranh thị phần khốc liệt mà cần chi phí vốn đầu tư lớn hơn rất nhiều. Với tỉ lệ lạm phát cao theo thời gian như Việt Nam đang trải qua thì vốn dùng đầu tư ngày nay đã lớn gấp nhiều lần ngày xưa.
Ngôi sao của Top 50
CNG Việt Nam: Quán quân 2013
Chúng tôi dùng bộ tiêu chí này để xếp hạng các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán 3 nước Malaysia, Indonesia, Thái Lan và kết quả thật bất ngờ.
Malaysia, đất nước sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới, có quán quân là công ty sản xuất dầu cọ và cao su thiên nhiên. Thái Lan nổi tiếng về công nghiệp du lịch thì công ty xếp hạng 1 thuộc ngành này.
Quán quân ở Indonesia là Công ty Viễn thông Inti Bangun Sejahtera, tuy có quy mô nhỏ hơn các công ty cùng ngành nhưng doanh thu và lợi nhuận năm 2012 tăng trưởng đến 300%, vượt qua Unilever Indonesia và xếp vị trí số 1.
Trong khi đó, ở Việt Nam quán quân là Công ty Cổ phần CNG Việt Nam, một công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, vận chuyển, phân phối khí nén thiên nhiên CNG. Với 3 chỉ số tài chính bình quân 3 năm 2010-2012 khá ấn tượng: tăng trưởng doanh thu là 120%, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và vốn đầu tư (ROC) là 55% và 43%, CNG đã giành vị trí đầu tiên trong Top 50.
Giống trường hợp Tập đoàn Hà Đô (HDG) năm ngoái, CNG đứng đầu nhờ tiêu chí tăng trưởng doanh thu bình quân 3 năm vượt trội ở mức 120%/năm. Tuy nhiên, sự vượt trội này chủ yếu do quy mô doanh thu năm gốc tính toán nhỏ và tăng trưởng doanh thu không đồng đều qua các năm (năm 2012 tăng 9%, năm 2011 tăng 156%, năm 2010 tăng 278%).
Vinamilk: Voi vẫn phi nước đại
Trải qua 10 năm cổ phần hóa, Vinamilk đã có bước tăng trưởng vượt bậc với doanh thu tăng gấp 6,3 lần, lợi nhuận tăng gấp 11 lần, quy mô vốn chủ sở hữu gấp 8,3 lần so với năm 2004 (năm tài chính đầu tiên sau cổ phần hóa) và cũng là 1 trong 4 công ty (GAS, FPT, VNM, PVS) đạt doanh thu tỉ USD trên sàn chứng khoán.
Nếu được phép bình chọn công ty đứng đầu bảng tổng sắp, chúng tôi có lẽ sẽ “bỏ phiếu” cho Vinamilk, bởi một con voi khổng lồ mà biết chạy nhanh như công ty này quả thật không dễ tìm tại Việt Nam.
Điều đặc biệt nhất là toàn bộ hoạt động đầu tư của Vinamilk được tích lũy từ chính nguồn lợi nhuận mà công ty này tạo ra. Trong quá trình hoạt động, Vinamilk cũng có lúc lấn sang mảng cà phê, bia nhưng cuối cùng đã kịp quay về ngành kinh doanh cốt lõi và phát triển khá tốt.
Những kết quả ấn tượng trên đã thể hiện sự năng lực quản trị đẳng cấp của đội ngũ lãnh đạo công ty này, đặc biệt là dấu ấn của “thuyền trưởng” Mai Kiều Liên, Tổng Giám đốc Công ty.
Bà Liên chia sẻ với chúng tôi quan điểm kinh doanh khá quyết liệt: “Tôi nói với nhân viên của mình rằng Vinamilk không những phải trụ được trong ngành mà còn phải giành lấy thị phần, công ty có lớn đến đâu nhưng mỗi năm vẫn phải lấy thêm được một ít thị phần, 1-2% cũng được. Vì đứng yên thì coi như mình đang đánh mất”.
Trong bảng tổng sắp Top 50 của chúng tôi, Vinamilk đã vươn lên vị trí số 2 so với thứ 4 của năm ngoái. Nhìn trong tương quan các doanh nghiệp khác trong bảng xếp hạng, nếu sự tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp cao su và dầu khí phụ thuộc khá nhiều vào giá bán thì Vinamilk lại tăng trưởng bằng công suất nhà máy liên tục mở rộng và sản lượng tiêu thụ tăng nhanh.
Năm 2012 cũng đánh dấu những thành công nhất định của VNM trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triền sản phẩm mới, khi Vinamilk đã tung ra thị trường hàng loạt sản phẩm mới, trong đó có 3 dòng sản phẩm nổi bật là Goldsoy chế biến từ 100% đậu nành không biến đổi gen, sữa chua Probeauty bổ sung Collagen và sữa bột Dielac Optimum hỗ trợ tiêu hóa cho trẻ từ 0-3 tuổi.
Tổng giám đốc Vinamilk là một trong những doanh nhân tiếp nhận tư duy cổ phần hóa và thị trường từ khá sớm. Từ thời kỳ hàng loạt nhà máy sữa thuộc Vinamilk được dựng lên với quy mô nhỏ, đến nay, việc các siêu nhà máy mới sẽ được vận hành đang thể hiện rõ nét quan điểm cạnh tranh quyết liệt của bà trên thương trường.
Bà chia sẻ quan điểm kinh doanh “thắng bằng sản lượng” và “lúc này, thay vì xây dựng các nhà máy nhỏ thì đầu tư các nhà máy rất lớn và hiện đại nhất”. Tham vọng của các nhà quản trị Vinamilk là đạt đến doanh số 3 tỉ USD vào năm 2017.
Trong buổi trò chuyện thân mật cùng bà Liên tại siêu nhà máy sữa bột trẻ em, bà chia sẻ: “Sữa và cà phê là hai thứ Việt Nam có thể xuất khẩu tốt. Hiện nay, Vinamilk đang thu mua của nông dân 500 tấn sữa/ngày và sắp tới, chúng tôi sẽ phát triển thêm trang trại bên cạnh 5 trang trại hiện thời và tiếp tục sát cánh cùng nông dân”.
Vinamilk đã hoạt động theo mô hình kỹ trị nâng cao từ khoảng 4 năm nay. Điều đó có nghĩa, nhân lực biến động cũng không tác động nhiều đến công ty.
Mỗi người có bản mô tả công việc rõ ràng, người sau thay người trước thì cứ thế mà làm. “Văn hóa mà Vinamilk xây dựng từ lâu nay là minh bạch và công bằng. Tôi quan niệm, đã là công ty niêm yết lớn thì không nên giấu giếm điều gì”, bà nói.
Vinacafe Biên Hòa: Thay da đổi thịt khi về với Masan
Bên cạnh sự thăng hạng của VNM trong “top 10”, Vinacafe cũng là một đại diện tiêu biểu, minh chứng cho sự tăng trưởng của lĩnh vực hàng tiêu dùng bất chấp khó khăn của chu kỳ kinh tế. Doanh thu và lợi nhuận 2012 tăng 41% và 33%, mức tốt nhất trong vòng 5 năm qua, đã đưa VCF lên vị trí thứ 9 so với 26 năm ngoái.
Về với Masan Consumer hơn 1 năm (từ quý III/2011), VCF đã thay đổi từ diện mạo bên ngoài đến kết quả hoạt động kinh doanh. Thị trường dường như đón nhận ngay những chiến dịch quảng cáo mạnh tay mà VCF giới thiệu cho các sản phẩm mới như “Wake up Sài Gòn”, “Wake up Café”,“ New Vina Café”, ngũ cốc dinh dưỡng “Kachi”.
Điều đáng nói nhất về sức mạnh tăng trưởng của VCF chính là việc sản phẩm của họ được đưa vào kênh tiêu thụ rộng khắp của Masan, một doanh nghiệp sản xuất mì gói, nước chấm với hệ thống lớn nhất nhì Việt Nam. Nhờ đó sản lượng tiêu thụ cà phê năm 2012 của VCF đã tăng trưởng hơn 30%, ngũ cốc dinh dưỡng tăng khoảng 40% (chiếm 22% doanh thu và dẫn đầu thị phần).
VCF đã đặt kế họach doanh thu và lợi nhuận sau thế 2013 tăng 46% và 60% khi nhà máy cà phê hòa tan Long Thành (công suất 3.200 tấn/năm, gần gấp 3 lần tổng công suất 2 nhà máy đang hoạt động) dự kiến đi vào hoạt động năm 2013.
Traphaco & Dược Hậu Giang: Cùng nhau thăng hạng
Nhìn ra ngoài “Top 10”, 40 công ty còn lại trong danh sách “Top 50” không có biến động lớn về thứ hạng so với danh sách của năm 2012. Tuy nhiên, đáng lưu ý nhất là mức tăng hạng của các công ty trong ngành dược phẩm, đặc biệt là Traphaco (TRA) và Dược Hậu Giang (DHG).
Traphaco là công ty dẫn đầu thị phần Đông dược nên vẫn duy trì doanh thu và lợi nhuận sau thuế tăng trưởng ở mức 30% trong năm 2012. Sự tăng trưởng này đã giúp TRA nâng hạng lên vị trí 29 so với vị trí 47 của năm 2012.
Tiềm năng tăng trưởng dài hạn của TRA được hỗ trợ bởi các yếu tố (1) là công ty đầu tiên phát triển vùng trồng dược liệu khép kín bằng công nghệ Greenplan, (2) là công ty biết chủ động về nguồn nguyên liệu với 70% tự sản xuất khép kín, kết hợp thu mua từ nông dân, (3) nhu cầu sử dụng đông dược hiện tại ở Việt Nam đạt mức 80.000 tấn/năm, trong khi công suất của công ty chỉ mới 30.000 tấn/năm.
Trong khi đó, Dược Hậu Giang, công ty có thị phần lớn nhất trong các công ty dược nội địa và có hiệu quả sử dụng vốn tốt nhất (trên 30%) cũng nâng hạng từ 18 (năm 2012) lên 16 (năm 2013).
Thiết bị y tế Việt Nhật: Doanh nghiệp tư nhân duy nhất trong Top 10
Lần đầu tiên vào “Top 50” JVC đã xếp ngay vị trí thứ 3 và là công ty cổ phần tư nhân duy nhất trong Top 10. Vậy JVC là ai?
Là công ty chuyên kinh doanh thiết bị y tế hoạt động trong bối cảnh ngành y tế Việt Nam còn yếu, chưa đồng bộ và lạc hậu, JVC có được lợi thế cạnh tranh lớn vì là nhà phân phối độc quyền của rất nhiều hãng cung cấp thiết bị y tế lớn như Hitachi, Carestream Health, Kodak cho hơn 100 bệnh biện lớn trên cả nước.
Lợi thế của JVC là nguồn hàng ổn định, giá cạnh tranh và nhiều hỗ trợ ưu đãi từ các nhà sản xuất, trong khi đối thủ của họ chỉ cung cấp hệ thống đơn lẻ, khó vận hành và thiếu tính tương thích.
Theo Tổ chức Nghiên cứu Thị trường Business Monitor, thị trường trang thiết bị y tế năm 2011 ở Việt Nam có giá trị 600 triệu USD và được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng từ 15,2%/năm để hướng tới quy mô trên 1,2 tỉ USD vào năm 2015. Điều này cho thấy, JVC còn rất nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương lai.
Lời kết
Sau 2 năm thực hiện, một số điểm hạn chế của phương pháp nghiên cứu xếp hạng cũng được chúng tôi ghi nhận. Đầu tiên là sự chênh lệch về quy mô giữa các công ty trong Top 50.
Chúng tôi luôn mong muốn có thể xếp hạng các công ty quy mô lớn và quy mô nhỏ thành 2 nhóm riêng nhằm phản ánh chính xác hiệu quả quản trị doanh nghiệp ở từng công ty. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn thường có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và đòi hỏi năng lực quản lý không phức tạp như các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp niêm yết còn ít và thiếu công ty lớn đã không cho phép chúng tôi thực hiện điều này. Số lượng doanh nghiệp mới lên sàn HOSE thậm chí còn có xu hướng giảm: năm 2011 có 26 công ty mới niêm yết trên sàn, nhưng sang năm 2012 chỉ có 12 công ty.
Một điểm hạn chế khác là chỉ tiêu ROE, ROC mới chỉ phản ánh kết quả quá khứ và thực tại của doanh nghiệp, chưa phản ánh hết tiềm năng dài hạn của công ty. Các công ty trong giai đoạn tăng vốn và mở rộng đầu tư sẽ tạm thời chịu mức ROE thấp hơn và có thể bị xếp hạng thấp hơn.
Tuy nhiên, rất có thể 3 đến 5 năm sau, khi các khoản đầu tư này bắt đầu thu lợi nhuận, các công ty này sẽ vào Top 50 và xếp hạng cao. Masan là một công ty đại diện cho trường hợp này.
Trong 2 năm vừa qua Masan liên tục mở rộng quy mô bằng cách M&A và Masan cần thêm thời gian để các tài sản mới này đóng góp lợi nhuận. Quy mô vốn tăng nhanh khiến ROE năm 2011 và 2012 ở mức 8,55% và 15%, MSN giữ vị trí 36 trong bảng xếp hạng Top 50.
Cuối cùng, chúng tôi luôn hướng đến sự khoa học, chính xác và công bằng nhất khi thực hiện xếp hạng nhưng chắc chắn mọi sự so sánh đều chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, mục tiêu tối thượng của Hội đồng Khảo sát 50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam là luôn tìm cách hoàn thiện các tiêu chí xếp hạng để phản ánh xác thực nhất hiệu quả tăng trưởng của doanh nghiệp Việt Nam, tôn vinh các doanh nghiệp có chiến lược tăng trưởng đúng đắn và bền vững.